Nhãn

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Bài hát : Nhớ một chiều xuân.Nhạc và lời Nguyễn văn Đông


Thế giới đó đây:Tu viện Sumela-Thổ nhỉ Kỳ


TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ - 
Dsản văn hóa thế giới

Huyền bí tu viện cheo leo vách núi ở Thổ Nhĩ Kỳ

Được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, tu viện Sumela là một công trình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, tôn giáo và kiến trúc của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Tu viện nằm cheo leo trên vách núi trong màn sương mờ ảo.
Tu viện Sumela nằm tại Trabzon, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen. Tu viện được xây dựng trên một vách núi cheo leo cao 1.200m. Do thời tiết quanh năm ẩm ướt cộng với sương mù thường xuất hiện nên tu viện cổ kính này luôn khoác trên mình vẻ âm u, huyền bí.
Để leo lên tu viện Sumela, du khách có hai sự lựa chọn. Một con đường hiện đại được xây dựng xuyên từ sườn bên kia của ngọn núi sang tu viện. Còn nếu bạn không ngại đi bộ, bạn hoàn toàn có thể trải nghiệm và đồng hành với một con đường xuyên rừng, leo lên sườn dốc để lên tu viện.
Lên một chiếc cầu thang chênh vênh bên sườn núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống dẫn nước được đặt trên những mái vòm nối tiếp nhau phía tay trái. Đây chính là nguồn nước duy nhất của những người sống trong tu viện. Ngày nay, các mái vòm đã được phục dựng khá hoàn thiện.



Cầu thang men theo sườn núi vào tu viện, bên trái là đường ống dẫn nước đặt trên những cột trụ cổng vòm.

Bao quát toàn cảnh những dãy nhà nguyện.

Phần kiến trúc bằng gạch trong lòng hang đá.

Nhà nguyện đá.

Leo hết cầu thang, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh những dãy nhà nguyện cổ kính chen nhau dưới mái vòm hang động. Tu viện Sumela có tổng cộng 72 căn phòng, bao gồm nhà thờ đá, các nhà nguyện, bếp, phòng học, phòng tiếp khách và một thư viện lớn. Phần trung tâm của tu viện được đào sâu vào lòng núi và có thêm phần hậu cung xây bằng gạch. Các bức tường gạch và đá đều mang trên mình những bức tranh tường mang chủ đề tôn giáo.
Truyện kể rằng Thánh Luke, một tông đồ của Chúa Jesus đã tạc một bức tượng gỗ màu đen Đức Mẹ Đồng trinh Maria. Sau khi ông qua đời, thánh vật này được chuyển đến Athens, Hy Lạp. Tương truyền, các thiên thần đã mang bức tượng đến một hang đá cất giấu để đến năm 386, hai tu sĩ người Athens là Barnabas và Sophronius đã phát hiện ra nó. Họ đã xây dựng nên tu viện Sumela ngay tại hang đá này. Từ Sumela bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp của Đức mẹ Đồng trinh - Panaghia.
Tranh tường theo chủ đề tôn giáo, khắc họa các cảnh trong Kinh Thánh.


Đức Mẹ Đồng trinh Maria.

Chúa Jesus.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp quanh tu viện.

Tu viện Sumela là một tu viện Chính thống giáo Hy Lạp, một nhánh của Kitô giáo. Các hoàng đế của đế chế Trebizond đã không tiếc tiền của xây dựng tu viện này. Khi vương triều này sụp đổ và bị thay thế bởi đế chế Ottoman của người Hồi giáo, tu viện Sumela vẫn được duy trì. Cả người theo Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều tin rằng, phép màu của Đức Mẹ Maria sẽ mang đến sức khỏe dồi dào cho những người hành hương.
Đầu thế kỷ 20, cùng với sự thành lập của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, người Hy Lạp buộc phải rời khỏi Sumela và tu viện chính thức bị bỏ hoang từ năm 1923. Các tu sĩ đã chuyển các báu vật sang Hy Lạp, và nhiều công trình bằng gỗ đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn năm 1930. Ngày nay, tu viện Sumela đã được phục dựng và trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.
Chữ cổ trên tường tu viện.

Hình ảnh tu viện trên một tấm bưu thiếp gửi năm 1903.


Tu viện Sumela là điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách trên thế giới.
============================

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Nước uống quan trọng như thế nào ?.Mời xem


Nước uống
Theo Ðại học Washington.
Một ly nước uống sẽ lấy mất đi cảm giác đói suốt đêm
cho hầu hết những ai phải ăn kiêng

Thiếu nước là nguyên nhân số 1 gây ra sự mệt mỏi trong ngày

Nhiều nghiên cứu cho biết từ 8-10 ly nước trong ngày
có thể làm giảm những cơn đau lưng và đau khớp
cho gần 80% những ai bị các bệnh nầy

Chỉ cần giảm 2% nước trong cơ thể con người
sẽ gây sự mất liên kết về trí nhớ trong thời gian ngắn,
những vấn đề về toán học và khó khăn khi phải tập trung
trước màn hình vi tính hay trước một trang giấy in.

Uống 5 ly nước mỗi ngày giãm 45 % nguy cơ ung thư ruột
và có thể giảm nguy cơ ung thư vú từ 79% và 50% ung thư bàng quang.
Bạn đã uống đủ nước cần thiết mỗi ngày chưa?

Bạn có biết?

Thời kỳ uống nước thích hợp.... rất quan trọng

Uống nước vào những lúc chính xác sẽ tăng tối đa hiệu quả trong cơ thể con người:

-
 2 ly nước ngay khi thức dậy, giúp các cơ quan nội tạng khởi động

-
 1 ly nước 30 phút trước bữa ăn giúp tiêu hóa tốt

-
 1 ly nước trước khi đi tắm giúp hạ huyết áp

-
 1 ly nước trước khi đi ngủ tránh cho bạn các cơn nhồi máu cơ tim.

Hãy gởi thông tin này đến những người thương yêu của bạn.




về địa danh Thủ dầu Một




TIẾP CẬN ĐỊA DANH THỦ DẦU MỘT:
Nhìn từ góc độ lịch sử, từ nguyên...
(Quá trình hình thành và thời điểm xuất hiện)
Minh Châu

Thủ Dầu Một (TDM) là tên cũ của tỉnh Bình 
Dương (BD) trước năm 1956, tồn tại 87 năm 
(1869-1956) và  đã gắn liền với lịch sử  đấu 
tranh, xây dựng và phát triển của vùng đất, nay 
là địa bàn tỉnh BD. Địa danh này đã được nhiều 
tác giả, sách báo tìm hiểu, giải thích về xuất xứ, 
lai lịch, từ nguyên... nhưng đến nay cũng chưa 
có được sự thống nhất và sức thuyết phục cao. 
Chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu nói trên cần 
nên tiếp tục, nhất là việc xác  định chính xác 
thời điểm xuất hiện của địa danh này vẫn gần 
như còn bỏ trống... 
Gần  đây, nhân  được  đọc mấy bài báo, bài 
nghiên cứu (của một nhà văn và của một thạc 
sĩ sử học) đề cập đến vấn đề địa danh TDM... 
chúng tôi thấy có đôi điều muốn được trao đổi 
thêm với các tác giả bài viết nói trên. 
Về bài viết thứ nhất, cách  đây chưa lâu, nhà 
văn Nguyễn Yên Mô, một thành viên tham dự 
trại sáng tác văn học năm 2006 tại BD (do Tạp 
chí Văn nghệ QĐND và Hội VHNT Bình Dương 
tổ chức) có sáng tác bút ký “Bình Dương, 
hương  đất tình người”
(1)
. Bút ký  được chọn 
đăng và được lấy tên đặt thành tiêu đề chung 
cho tuyển tập thơ văn của trại sáng tác. Điều 
đáng nói là trong bút ký này tác giả đã thuật lại 
việc đi tìm hiểu về lai lịch tên gọi TDM. Nhà văn 
đã viết: “Người ta bảo “thủ” tức là  đứng  đầu, 
“một” tức là duy nhất, “dầu” tức là cây dầu (...). 
Thế còn “Thủ Đức”, “Thủ Thừa”, “Thủ Thiêm”? 
Đó là ông quan đứng đầu “trấn”(?). Rồi ông nêu 
lên một câu hỏi mà thực chất là một phát hiện 
của riêng mình để giải thích tên gọi TDM: “Ngày 
xưa TDM cũng là một trấn(?). Có phải quan 
trấn thủ  đất này tên gọi là “Một”(?) sđđ trang 
187. 
Qua  đoạn viết trên cho thấy cái tên nôm na 
TDM  đã gợi nhiều sự chú ý thu hút  đối với 
những người muốn tìm hiểu nó và sự tìm hiểu 
quả là không  đơn giản chút nào! Bằng chứng 
nhà văn đã gặp không ít lúng túng và cả sự mơ 
hồ khi hiểu về  địa danh này. Thực ra, TDM 
chưa bao giờ là một  đơn vị hành chính cấp 
“trấn”, cũng không có bất cứ tài liệu, tác giả nào 
nhắc đến chuyện đất TDM có một ông Trấn thủ 
tên là Một như tác giả đã nghĩ. 
Tuy nay TDM không còn là tên riêng của một 
tỉnh, nhưng từ lâu TDM vẫn luôn là lỵ sở, thủ 
phủ hành chính của vùng đất này  và hiện nay 
còn có một thị xã (thành phố) sầm uất, xinh đẹp 
vẫn mang tên TDM. Mới  đây, ngôi trường  đại 
học chính quy lớn nhất của  địa phương cũng 
mang tên Đại học Thủ Dầu Một. Chắc chắn mai 
đây, cùng với BD, TDM sẽ là những thành phố 
công nghiệp - dịch vụ năng  động quan trọng 
hàng đầu của Bình Dương và của vùng kinh tế 
trọng điểm phía Nam, cũng như của cả nước. 
Từ những điều trình bày ở trên, cho thấy việc 
tiếp tục tìm hiểu, thảo luận thêm một cách thấu 
đáo về tên gọi TDM, địa danh luôn gắn liền với 
lịch sử của xứ này, là điều cần thiết nên làm. 
•  Tên TDM đã được hình thành ra sao 
về mặt lai lịch, từ nguyên? 
Trước hết, xin được điểm lại một số giải thích 
đáng chú ý hơn cả của các nhà nghiên cứu có 
uy tín chung quanh sự hình thành cụm từ  địa 
danh TDM. Đồng thời thử nêu lên một cách lý 
giải, tiếp cận nhìn từ góc độ lịch sử, từ nguyên 
cũng như về thời điểm xuất hiện của địa danh 
này. 
Trước đây cũng có những tác giả cho rằng tên 
TDM có nguồn gốc từ tiếng Campuchia. Chẳng 
hạn, như nhà soạn từ  điển Lê Văn  Đức, nhà 
ngữ học Lê Ngọc Trụ, ở phần địa danh  (trang 
260) trong “Việt Nam từ điển” (Sài gòn TB 1970) 
cho rằng tên TDM do âm Việt  đọc tiếng Cao 
Miên (sic) “Thun Doán Bôth” (có nghĩa là gò có 
đỉnh cao nhất) mà ra (lỵ sở TDM ở trên ngọn 
đồi ven sông Sài gòn)
(2)

Nhưng phần  đông tác giả khác (kể cả người 
viết bài này) đều nghĩ TDM là một cụm từ tiếng 
Việt  được hình thành từ sự kết hợp giữa hai -2- 

thành tố: “Thủ” (từ Hán - Việt có nghĩa là “giữ”vì 
nơi  đây có  đồn binh  để canh giữ, kiểm soát); 
“Dầu Một” là tên đất, được cấu tạo theo cách: 
“Tên một loài thảo mộc + từ chỉ số lượng”. Ví 
dụ như các  địa danh “Quéo Ba” (ở Long An), 
“Xoài  Đôi” (ở Phú Nhuận, TP.HCM). Theo 
truyền khẩu vì  đồn binh canh giữ tại huyện lỵ 
Bình An nằm trên ngọn đồi có cây dầu lớn quen 
gọi là “cây dầu một” nên tên gọi THỦ DẦU MỘT 
ra đời. 
Học giả Vương Hồng Sển trong từ điển “Tiếng 
nói miền Nam” TP.HCM xb 1997, trang 645) 
cho rằng người Campuchia gọi tên TDM là 
“Chhocutal MucyDoem” (Chhocutal: gỗ dầu; 
Mucy: một; Doem: cây) có nghĩa là “cây dầu 
một” theo đúng cách hiểu ở trên(3)
. Người Hoa 
cũng dùng tên “Thổ Long Mộc” (cây rồng  đất: 
có thể hiểu đây là cây dầu rái hay dầu lông có 
chứa chất nhựa rất dễ cháy nổ gọi là “mãnh 
hỏa du”, để chỉ vùng đất TDM. Trong hồi ký viết 
về vùng đất TDM (xuất bản tại Paris 1863), đại 
úy L.C Grammont (viên sĩ quan Pháp  đánh 
chiếm và quân quản TDM trong thời gian 1961-
1962), cũng hiểu “thủ” là “giữ”; “dầu một” là một 
loại cây nên đã dùng cụm từ Pháp để chuyển 
nghĩa tên TDM “garde - un arbre” (garde: giữ 
un arbre: một cây).   
Riêng chữ “thủ” còn có người hiểu theo nghĩa 
là “đầu”,  đứng  đầu như trong các từ kép “thủ 
sở”, “thủ phủ” là nơi đặt trụ sở một đơn vị hành 
chính.  Trong “Kỷ yếu TDM - Bình Dương 300 
năm hình thành...” (XB 1998), nhà nghiên cứu 
địa bạ Nguyễn  Đình  Đầu giải thích  địa danh 
TDM: “Trong địa phận làng này xưa có thủ sở 
gần cây dầu lớn nhất...” (trang 49). 
Trên đây là một số giải thích về địa danh TDM. 
Tuy việc làm này cần nên tiếp tục, nhưng đến 
nay chúng ta cũng có thể  đi  đến một cách lý 
giải, tiếp cận có nhiều cơ sở có thể thuyết phục 
và chấp nhận được (phần lý giải này đã được 
trình bày trong cuốn sách “Lối xưa đất Thủ” của 
chúng tôi xuất bản 2009)
(4).
 Chẳng hạn, tên gọi 
“dầu một” hay là vùng có nhiều cây dầu lông, 
dầu rái (miệt dầu). Việc dùng tên thảo mộc (cây 
đặc sản hay  đặc biệt)  để tạo thành một  địa 
danh vẫn là cách thường thấy tại nước ta, nhất 
là  ở miền Nam. Thí dụ: các  địa danh “Trảng 
Bàng” (khoảng đất rộng có nhiều cây bàng), Gò 
Vấp (gò có nhiều cây vấp, cây lim). Ngay ở thị 
xã TDM có tên xóm Gò Cầy (gò có nhiều cây 
cầy, cây Kơ-nia (?)). Còn tên đất liên quan đến 
cây dầu rái (dầu lông) thì có nhiều, khá phổ 
biến như tên huyện Gò Dầu (ở Tây Ninh), xóm 
Suối Dầu (ở Nha Trang). Riêng ở TDM - Bình 
Dương trước  đây có rất nhiều cây dầu, ngày 
nay loại cây này vẫn còn khá nhiều trên khu đồi 
UBND Tỉnh ủy Bình Dương. Chắc rằng tên Dầu 
Một và cả tên TDM bắt nguồn từ tên loài cây 
này mà ra. Từ “Thủ” (là do có đồn binh để trấn 
thủ hay  đó là nơi “thủ sở”) ghép với từ “dầu 
một” thành  tên TDM  đều có thể hợp lý, vì từ 
xưa đến nay nơi đây luôn là lỵ sở của vùng đất 
TDM - BD trước năm 1956 của tỉnh Sông Bé 
sau ngày giải phóng cũng như tỉnh BD hiện nay. 
•  Địa danh TDM có từ bao giờ? 
Đây là câu hỏi không dễ có  được câu trả lời 
chính xác, thỏa  đáng. Vì thế,  đến nay câu trả 
lời đó vẫn còn bỏ trống, tất nhiên không được 
nhầm lẫn các mốc thời  điểm cụ thể rõ ràng 
trong các quyết  định thành lập các  địa danh 
đơn vị hành chính cấp hạt, tiểu khu, tỉnh TDM 
với tên gọi dân gian TDM được hình thành từ 
những  đặc  điểm riêng, tạo nên một  địa danh 
khó có tên thứ hai trùng lắp. 
Tên gọi TDM có lẽ được hình thành từ một quá 
trình lắp ghép các tên gọi dân gian quen thuộc 
và chắc chắn có trước khi người Pháp  đánh 
chiếm vùng đất Biên Hòa - Bình An.   
Đến năm 1869, lần đầu tiên tên TDM được đặt 
cho một đơn vị hành chính cấp hạt: Hạt (tham 
biện) TDM (1869-1876), tiếp theo là tiểu khu 
(hành chính) TDM (1876-1889) rồi tỉnh TDM 
(1889-1956). 
Trả lời câu hỏi tên TDM có từ bao giờ, TS. Lê 
Trung Hoa, một tác giả chuyên khảo về  địa 
danh cũng chỉ xác  định  được rằng  tên TDM 
phải có trước năm 1871(5)
. Có  được sự xác 
định này chắc là TS. Lê Trung Hoa đã dựa vào 
một số cứ liệu trong một cuốn sách viết về lịch 
sử đường phố Thi Sách ở quận I, TP.HCM, có 
liên quan  đến  địa danh TDM như sau: 
“...Đường nay thuộc loại xưa nhất Sài Gòn (...), 
từ ngày 2-6-1871 đến 1877  đường đặt  tên là 
đường TDM (...). Năm 1955  đổi thành  đường 
Thi Sách”
(6)
. Nhưng như trên  đã dẫn, ngay từ 
năm 1869 (trước thời điểm TS. Hoa đưa ra đến -3- 

2 năm) tên TDM  đã  được  đặt cho một  đơn vị 
cấp hạt (hạt hành chính TDM 1869-1876). 
Mới đây trên ấn phẩm “Thông tin khoa học và 
đào tạo số 01-2010 của trường  Đại học Thủ 
Dầu Một, ở bài viết: “TDM tên gọi và lịch sử”, 
tác giả, ThS. Sử học Vương Quốc Khanh có 
đưa ra một số sử liệu và nhận  định về thời 
điểm xuất hiện địa danh TDM như sau:  “Theo 
truyền thuyết tên TDM có vào thế kỷ XVI, khi 
nhà Nguyễn lập chính quyền  ở  đây”(?) (trang 
28). Cách mấy dòng sau đó, tác giả đưa ra mấy 
cứ liệu và khẳng định”. Thật ra, tên TDM ra đời 
ngày 5-11-1876 (...) là một  đơnvị hành chánh 
tiểu khu (...).  Đến ngày 20-12-1899, Toàn 
quyền Đông Dương đổi tiểu khu ra thành tỉnh” 
(trang 29). 
Qua mấy nhận định trên đây, chúng tôi có đôi 
điều muốn  được trao  đổi thêm với tác giả bài 
báo. Và nhân đây xin trình bày cách lý giải có 
thể xác định được thời điểm xuất hiện địa danh 
TDM. 
Theo tác giả bài báo là khó xác định thời điểm 
trên vì “theo truyền thuyết tên TDM có vào thế 
kỷ XVI”, nghĩa là vào một thời  điểm nào  đó 
trong khoảng thời gian từ 1501 đến 1600 (điều 
này sẽ trao đổi sau) và chỉ có thể biết đến TDM 
như là một đơn vị hành chính cấp tiểu khu TDM 
vào 1876. Nhưng nếu phải nói về đơn vị hành 
chính TDM  đầu tiên lẽ ra phải nhắc  đến hạt 
(tham biện) TDM xuất hiện từ  năm 1869 trước 
năm bài báo trên  đã dẫn (1876)  đến 7 năm. 
Đáng nói hơn là thời điểm TDM trở thành đơn 
vị hành chính cấp tỉnh (ngang hàng với tỉnh 
Biên Hòa mà trước đó chỉ là một huyện của tỉnh 
này) vào năm 1889 chứ không phải như tác giả 
đã dẫn là năm 1899 (nếu đây không phải là lỗi 
in ấn). Được biết tất cả tài liệu viết về TDM đều 
ghi  đó là năm 1889. Cũng theo bài viết “tên 
TDM có vào thế kỷ XVI...”, chúng tôi cho rằng 
đó là quãng thời gian quá sớm nếu so với quá 
trình mở đất và định cư của cư dân miền ngoài 
trên đất Đồng Nai - Gia Định lúc bấy giờ. Cũng 
như việc  xác  định thời  điểm “Nhà Nguyễn lập 
chính quyền ở đây” vào thế kỷ XVI là hoàn toàn 
không chính xác. Bởi lẽ  đó là sự kiện lịch sử 
quan trọng  đã  được ghi chép rõ ràng: “Năm 
Mậu Dần (1698)... Chưởng cơ Nguyễn Hữu 
Cảnh kinh lược Cao Miên đem xứ Đồng Nai đặt 
huyện Phước Long và đặt dinh Trấn Biên”. (ĐN 
NTC)
(7)
.  Đất TDM sau này lúc bấy giờ nằm trên 
địa bàn tổng Bình An thuộc huyện Phước Long, 
dinh Trấn Biên nói trên. 
Như vậy  Nhà Nguyễn lập chính quyền  ở  đây 
vào cuối thế kỷ XVII, chứ không phải vào thế kỷ 
XVI như bài báo đã xác định. 
•  Có thể xác định được thời điểm xuất 
hiện địa danh TDM 
Chính cột mốc năm 1689, nhất là năm 1808 
cho ta cơ sở để có thể xác định được thời điểm 
hình thành tên gọi TDM. Cụm từ Thủ - Dầu Một 
chỉ có thể hình thành khi hội  đủ  điều kiện có 
thêm thành tố “thủ”, nghĩa là khi tại đây đã xây 
dựng đồn bình để trấn giữ (thủ sở) hoặc đã trở 
thành lỵ sở (thủ phủ) của vùng đất này. Được 
biết “Dầu Một” là tên gọi dân gian của địa danh 
Phú Cường như sách  ĐNNTC  đã ghi: “Chợ 
Phú Cường ở thôn Phú Cường huyện Bình An, 
tục danh chợ Dầu Một  ở bên huyện lỵ” (sđd 
tr.35). Còn  đồn bình Bình An rất có thể  được 
xây dựng từ sau năm 1808, khi tổng Bình An 
được nâng thành huyện. Theo sách ĐNNTC ở 
phần “quan Tấn (đồn binh, Thủ sở  để canh 
giữ...) cho biết từ  đầu  đời Minh Mạng tại phủ 
Phước Long có đặt các “thủ sở” (còn gọi là bảo, 
hay pháo đài) để giữ nơi quan yếu” (sđd trg 31) 
như bảo Phước Thắng (huyện Phước An - nay 
là Vũng Tàu) lập 1838; Pháo  đài Tả  Định 
(huyện Nghĩa An - nay là Thủ Đức) lập 1834; 
Bảo đất Tam Kỳ (huyện Bình An, sau là TDM) 
lập 1848. Riêng ở huyện Bình An có thêm đồn 
Thị Tính (1823) “để trấn giữ man dâu” và đồn 
Chơn Thành (1840)... Như vậy các  đồn binh, 
thủ sở đều thiết lập sau năm 1808. 
Như vậy, cụm từ địa danh TDM xuất hiện sớm 
nhất không thể trước năm 1808, tức là thời 
điềm tổng Bình An  được nâng thành huyện. 
Quá trình hình thành địa danh TDM có thể diễn 
tiến như sau. Lúc  đầu tên Dầu Một (tục danh 
của Phú Cường)  được nhóm lưu dân người 
Việt dùng để gọi một ngôi chợ (chợ Phú Cường) 
hay một xóm thôn tại  đây, khi  đồn binh  được 
lập thì gọi là chợ Thủ rồi sau đó ghép thành tên 
chợ TDM. Đến 1869 người Pháp thấy địa danh 
này nói lên được đặc điểm của địa phương, lại 
rất quen thuộc với cư dân nên họ dùng đặt tên 
cho đơn vị hành chính đầu tiên là hạt TDM, rồi 
sau đó là tỉnh TDM vào năm 1889. -4- 

Địa danh TDM do lưu dân người Việt  đặt ra, 
muốn biết khoảng thời gian của  địa danh này 
xuất hiện vào lúc nào? (thế kỷ XVI như tác giả 
bài báo khẳng định) chúng ta hãy điểm một số 
cột mốc chính cuộc nam tiến của dân tộc.    
Vào thời nhà Lê, đến cuối thế kỷ XVI, lãnh thổ 
nước Đại Việt mới đến đèo Cù Mông (ranh giới 
giữa tỉnh Phú Yên và Bình Định). Đến đầu TK 
XVII “năm 1611 (...) Nguyễn Hoàng phát quân 
đánh chiếm đất từ đèo Cù Mông đến Đại Lãnh 
(...) lập thành phủ Phú Yên (Đào Duy Anh, lãnh 
thổ nước  Đại Việt và sự hình thành dân tộc 
Việt)
(8)
. Non thế kỷ sau, chúa Nguyễn Phúc Chu 
tiếp tục mở rộng lảnh thổ: “Năm 1697 lấy  đất 
Phan Rang và Phan Rí,  đặt dinh Bình Thuận” 
(sđd tr.461).  Đây chính là vùng  đất cực nam 
miền Trung nước ta hiện nay. 
Về thời điểm người Việt định cư lập thành xóm, 
thôn đầu tiên ở vùng đất Đồng Nai - Gia Định 
vẫn chưa được các nhà nghiên cứu thống nhất 
vì nói chung rất khó xác định. Trước 1698, hầu 
hết di dân người Việt đến đây sống rải rác, xen 
kẽ với cư dân bản  địa. Từ khi  Nguyễn Hữu 
Cảnh lập các đơn vị hành chính đầu tiên (1698) 
mới có những nhóm di dân đông đúc từ vùng 
Ngũ Quảng  được khuyến khích vào  đây khai 
khẩn vùng đất mới này. Sách “Lịch sử khai phá 
vùng  đất Nam bộ (XB 1987, tr.38, do Huỳnh 
Lứa chủ biên) cho rằng chủ yếu “cuộc di dân 
của người Việt diễn ra trong TK XVII
(9)
. Lê Bá 
Thảo trong cuốn sách “Địa lý vùng đồng bằng 
sông Cửu Long” cho biết: “Vùng quanh Sài Gòn 
chỉ được khai phá và có dân dịnh cư vào năm 
1672”
(10)
. Như thế “vùng quanh Sài Gòn” trong 
đó có vùng Bình An - TDM đến nửa sau thế kỷ 
XVII mới được khai phá và có dân định cư, làm 
sao  địa danh tiếng Việt như TDM (kể cả Dầu 
Một) có thể xuất hiện vào thế kỷ XVI, vì  đến 
hàng trăm năm sau (1600-1808) các  đơn vị 
hành chánh cấp huyện cùng với các đồn bình 
thủ sở mới thiết lập. 






Tóm lại, tên gọi Thủ Dầu Một dã  được nhiều 
người tìm hiểu, có nhiều cách giải thích và vẫn 
chưa có câu giải  đáp hoàn toàn thỏa  đáng, 
được mọi người chấp nhận. Vì thế việc tìm hiểu 
này cần nên tiếp tục. Từ suy nghĩ đó và nhân 
có mấy bài báo, nhận  định  đã nêu, bài viết 
ngắn này muốn được trao đổi thêm và đưa ra 
một số cách tiếp cận như đã trình bày ở trên. 
Hy vọng rằng cách tiếp cận, lý giải này góp 
thêm một số cơ sở có sức thuyết phục nhiều 
hơn,  đặc biệt là phần thử xác  định thời gian, 
thời điểm xuất hiện các địa danh Dầu Một, TDM 
mà lâu nay có thể nói gần như bỏ trống. Qua 
đây, người viết cũng mong nhận được trao đổi, 
phản hồi từ những người cùng quan tâm vấn 
đề được nêu trên, cũng như những người cùng 
yêu mến quê hương TDM - BD. 
Chú thích: 
1. Nhiều tác giả, Bình Dương, hương đất tình người, 
NXB Trẻ 2006 (trang 187). 
2. Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ “Việt Nam từ điển, Sài 
Gòn TB 1970 (trang 260). 
3. Vương Hồng Sển, Từ điển Tiếng nói miền Nam, 
XB T.P.HCM 1997 (trang 645). 
4. Nguyễn Hiếu Học, Lối xưa đất Thủ, NXB Trẻ 2009 
(trang 11-14). 
5. TC KTNN số 283/1998 mục Ai? Sao? 
6. Nguyễn Thắng, Nguyễn  Đình Tư,  Đường phố 
TP.HCM, XB 2001 (trang 110). 
7. ĐNNTC Lục tỉnh Nam kỳ, dịch giả Tu Trai Nguyễn 
Tạo (Tập Thượng TB1 1973, trang 2). 
8. Đào Duy Anh, tác phẩm được tặng thưởng giải Hồ 
Chí Minh, XBKHXH, trang 448. 
9+10. Nhiều tác giả, Nam bộ đất và người, tập VI, 
NXB TP.HCM, trang 84. 
Nguồn:  http://www.sugia.vn/   

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Hình ảnh Thủ Dầu Một xưa (thời Pháp thuộc)

Mời các bạn xem những hình ảnh về Bình Dương đầu thế kỷ 20.



sông Bình dương-trên bến dưới thuyền.

những người Pháp đi săn hạ trại trong rừng.
Bến đò ở chợ Lái Thiêu,nông dân chở sản vật bằng thuyền đi bán.
vườn dừa Thủ dầu Một.
Vườn cau TDM
1 góc  phong cảnh TDM.
Mùa gặt lúa.
Cánh đồng miá cạnh đường rầy xe lủa
1 góc sông ở Lái Thiêu.
một góc chợ Thủ.
Lái Thiêu (bên kia sông)

Chợ gao Lái Thiêu.
Chợ Thủ.
dinh quan phó tham biện Tây.

1 Doanh trại của Pháp
Xe bò Hớn Quản.
Viên chức địa phương trong 1 ngày  lễ ở Hớn Quản
Mặt tiền chùa Bà(nay vẫn còn).
Chùa Cô hồn.
Nhà mát trên sông dành cho quan lại Pháp.


Nhà 1 gia đình giàu có.
Đường SG-Thủ Dầu Một.


                                                                       

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

Củ cải - nhân sâm của người nghèo



 
Công dụng chữa bệnh và làm đẹp của củ cải trắng
 

Củ cải trắng"Nhân sâm bình dân"

Không chỉ là một loại rau củ khá phổ biến ở nước ta, củ cải trắng còn có rất nhiều tác dụng trong chữa bệnh và làm đẹp. Hãy cùng webphunu.net khám phá nhé.
>> Chữa nhiệt miệng bằng củ cải
 
Kết quả phân tích cho thấy, trong 100g củ cải có 1.4g protid, 3.7g glucid, 1.5g xenluloza, 40mg canxi, 41mg photpho, 1.1mg sắt, 0.06mg vitamin B1, 0.06mg vitamin B2, 0.5mg vitamin PP, 30mg vitamin C… Lá và ngọn củ cải còn chứa tinh dầu và một hàm lượng đáng kể vitamin A, C.
 
 
Tác dụng chữa bệnh
 
 
Trong dân gian, củ cải từ lâu đã được dùng để chữa các chứng bệnh như:
 
Khản tiếng, không nói được: Củ cải sống 300g rửa sạch vắt lấy nước, gừng sống 20g giã vắt lấy nước, trộn hai thứ vào nhau rồi uống ngày 3 lần, uống 2 ngày là khỏi.
 
 
Chảy máu cam: Củ cải sống 300g rửa sạch giã vắt lấy 1/2 bát nước hòa thêm một ít rượu rồi đun nóng, lấy nước này nhỏ vào mũi ngày 3 - 4 lần.
 
 
Lở loét miệng do nhiệt: Giã củ cải sống 300g rồi vắt lấy nước hòa thêm một ít nước lọc, súc miệng ngày 3 lần, dùng 2 ngày là khỏi.
 
 
Đại tiện ra máu: Củ cải sống 200g giã nát, lọc lấy một chén nước nhỏ cho 4 thìa nhỏ nước mật ong, đun sôi và uống nước này vào buổi sáng hằng ngày.
 
 
Đau sỏi mật: Củ cải sống 300g thái to thành từng miếng như ngón tay, tẩm với mật ong màu vàng nhạt, không dùng mật ong màu nâu sẫm. Đặt củ cải đã tẩm mật ong lên chảo rồi sấy khô trên than hoặc lửa. Khi khô lại tẩm mật ong và sấy khô không để chảy nước, ăn củ cải sấy khô và uống một ít nước muối loãng ngày 2 lần, dùng trong một tháng.
 
 
Nước tiểu đục: Người bị nước tiểu đục do lo nghĩ nhiều, hoặc tửu sắc quá độ, lấy 200g củ cải trắng khoét rỗng bỏ hết ruột bên trong rồi nhét đầy ngô thù du (có bán tại hiệu thuốc Bắc), đậy kín lại.
 
Hấp chín củ cải bằng chõ rồi lấy ra bỏ hết ngô thù du, củ cải sấy khô, tán bột cho thêm chút bột quấy đặc vào và viên lại thành viên nhỏ như hạt đậu xanh. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống khoảng 30 - 40 viên với nước, rất hiệu nghiệm.
 
 
Viêm loét dạ dày: Với những người bị mắc bệnh viêm dạ dày và viêm niêm mạc dạ dày, việc tiêu hóa thức ăn sẽ rất khó khăn và gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe. Để khắc phục tình trạng này, hãy ăn nhiều củ cải đường. Các chất dinh dưỡng trong củ cải đường giúp thúc đẩy và hỗ trợ hệ tiêu hóa. Các chất xơ trong loại thực phẩm này cũng giúp thúc đẩy sự hấp thu kẽm và khoáng chất. Khi bị cảm, thần kinh căng thẳng, cũng có thể dùng củ cải đường để điều trị.
 
Tăng huyết áp: Với những người bị tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, nên uống nước ép củ cải pha với mật ong để hỗ trợ tốt hơn cho quá trình điều trị các loại bệnh này.
> > Mỏi cơ, đau khớp: Trong những ngày đông lạnh giá, nếu căn bệnh mỏi cơ bắp hoặc đau khớp ghé thăm, thì có thể lấy vỏ củ cải đắp trực tiếp lên chỗ đau hoặc bỏ vào một cái túi vải để chườm nóng. Lúc này, củ cải có tác dụng rất tốt trong việc giảm đau.
> > Khống chế ung thư: Trong lá củ cải, hàm lượng vitamin C nhiều hơn 4 lần so với củ. Tác dụng chính của Vitamin C là phòng chống lão hóa da, ngăn chặn hình thành các vết thâm nám, giữ cho da được trắng mềm. Ngoài ra, vitamin A và C đều có tác dụng chống oxy hóa, khống chế các bệnh ung thư và đề phòng chống lão hóa, cũng như xơ cứng động mạch. Vì thế, việc uống trà bằng lá củ cải rất có tác dụng trong việc làm đẹp da.
 
Cách làm rất đơn giản, chỉ cần rửa sạch lá củ cải, phơi khô 3 – 4 ngày. Lấy 30g lá cho vào nấu cùng với 1 lít nước, sau khi sôi chỉnh lửa nhỏ vừa, nấu thêm vài phút nữa, sau đó lọc nước ra uống, có thể thêm vào một ít đường để dễ uống hơn. 


Tác dụng làm đẹp
 
Củ cải trắng còn là một trong những nguyên liệu được phụ nữ Nhật Bản sử dụng rất nhiều trong giữ dáng vào chăm sóc sắc đẹp.
 
Dưỡng ẩm cho làn da: Củ cải được cắt thành những lát mỏng và đem phơi khô để làm nguyên liệu cho nước tắm. Trước khi tắm, cho củ cải khô vào một túi vải và ngâm vào nước tắm nóng 15-20 phút rồi mới tắm. Các vitamin có trong củ cải sẽ thấm sâu vào làn da, khiến cho làn da mịn màng và luôn tươi sáng. Trong những ngày mùa đông, loại nước tắm này không chỉ giúp dưỡng ẩm cho làn da mà còn có tác dụng giữ ấm cho cơ thể.
 
 
Giảm béo: Uống nước ép củ cải trước bữa ăn cũng được phụ nữ Nhật Bản thường xuyên sử dụng để có vóc dáng thon gọn. Loại nước ép này giúp giảm béo hiệu quả mà không cần phải ăn kiêng hoặc hạn chế lượng thức ăn.
Giúp da mặt trắng hồng: Đắp mặt nạ có nguyên liệu từ củ cải cũng là một trong những cách tiến gần đến giấc mơ sở hữu làn da đẹp. Mặt nạ củ cải, rau diếp cá sẽ giúp da mặt trắng hồng, rạng rỡ và đặc biệt là hết khô nẻ trong những ngày đông.
 
 
> Cách làm rất đơn giản chỉ cần xay hoặc dùng nước ép rau diếp cá và nước ép củ cải trộn với nhau, đắp lên mặt trong vòng 15 phút rồi rửa lại bằng nước sạch. Mỗi tuần thực hiện từ 2 đến 3 lần sẽ đem lại làn da bất ngờ đáng mơ ước đấy. Nếu có bị cháy nắng thì nước ép củ cải và mật ong sẽ là phương pháp tuyệt vời để xoa dịu đi những vết rám nắng trên da.
> > Một chậu nước rửa mặt mỗi ngày có pha nước ép củ cải cũng là cách để đem lại một làn da khỏe mạnh và một cảm giác thật dễ chịu, nhẹ nhàng không chỉ cho làn da mà cho cả tinh thần.